Tính năng Ōsumi (lớp tàu đổ bộ)

Phòng điều khiển của tàu JS Osumi.

Thân tàu

Thân tàu được phát triển dựa trên thiết kế khung thân của tàu thương mại, mỏ neo trên mũi tàu cũng là một loại mỏ neo hàng hải thông dụng. Tại thời điểm chạy thử nghiệm, phần đáy của tàu được phủ một lớp đỏ, nhưng sau đó, khu vực xung quanh mớn nước đã được sơn lại bằng màu đen.

Thân tàu được chia thành 15 khoang không thấm nước, với bốn mức theo độ cao. Boong thứ nhất là một sàn phẳng có diện tích 1.200 m2, bao phủ gần như toàn bộ chiều dài của tàu, ngoại trừ khu vực mũi tàu, kiến trúc thượng tầng của tàu được thiết kế dạng đảo và nằm lệch về một phía. Để cải thiện khả năng tàng hình, thân tàu tàu được thiết kế hơi dốc nhằm làm giảm diện tích phản hồi radar RCS, ngoài ra bề mặt tàu được phủ một lớp sơn đặc biệt có khả năng hấp thu sóng điện từ. Đây cũng là tàu chiến đầu tiên của JMSDF thay đổi cột buồm từ cấu trúc giàn sang cấu trúc hình ống.

Trong boong thứ nhất, khu vực phía sau kết cấu đảo chỉ huy được sử dụng làm sàn trực thăng , khu vực phía trước dài 100m là nơi tập kết các xe loại quân sự và vật liệu. Sàn đáp trên tàu được bố trí 2 vị trí đảm bảo cho 2 máy bay trực thăng có thể hoạt động cùng lúc. Bề mặt sàn đáp được sơn phủ các lớp chống trượt và cách nhiệt. Tàu không có nhà chứa riêng cho trực thăng. Trên mặt sàn đáp của tàu có 1 thang máy nhỏ dùng để vận chuyển các loại xe vận tải từ trên sàn đáp xuống hầm tàu và ngược lại.

Boong thứ hai và ba bao gồm các phòng họp và khu sinh hoạt của thuỷ thủ đoàn. Boong thứ tư là khoang chứa chuyên dụng với diện tích 1.000 m2 để chở trang thiết bị phục vụ cho các chiến dịch của JMSDF. Nó có thể chở 18 xe tăng chiến đấu chủ lực và 330-900 lính đổ bộ tùy vào quãng đường di chuyển. Trong trường hợp có thảm họa, tàu có thể chứa hơn 1.000 thường dân.

Dung lượng[1]
Binh sĩ330 người
Xe tải hạng nặngBoong thứ nhất38 chiếc
Boong thứ tư27 chiếc
Xe tăng Type 9018 chiếc

Ở đuôi tàu được thiết kế với một cửa lớn nối với khoang đổ bộ của tàu, bên trong khoang này có thể làm ngập nước trợ giúp hoạt động của tàu đổ bộ đệm khí. Khoang chứa này có thể triển khai được 4 tàu đổ bộ thông thường loại LCM YF-2121 hoặc 2 đổ bộ đệm khí loại LCAC hoặc các xe thiết giáp lội nước AAV-7, đây chính là điểm khác biệt của Osumi so với các tàu Hyuga hay Izumo khi việc đổ quân phải trông chờ hoàn toàn vào phi đội trực thăng.

Để xếp/dỡ thiết bị, các phương tiện chở quân đổ bộ và khí tài thiết giáp, tàu có 1 cần cẩu 19 tấn lắp phía sau đảo chỉ huy trên boong tàu về phía bên phải. Ngoài ra, còn có cần cẩu 5 tấn, bảo đảm đưa đạn dược từ hầm chứa lên boong tàu. Ở thân tàu còn bố trí cửa ngang để đưa hàng hóa vào. Về phía bên phải trước đảo chỉ huy còn có một cần cẩu thanh lồng có sức nâng 20 tấn dùng để hỗ trợ việc bốc dỡ hàng.

Nhằm bảo đảm đối phó với vũ khí NBC, tàu được lắp đặt hệ thống lọc không khí độc lập, hệ thống cảnh báo tự động việc phát hiện NBC. Ngoài ra, tàu còn trang bị hệ thống kiểm soát các hư hỏng do sự cố hay chiến đấu gây nên để nâng cao khả năng sống còn của binh sĩ. Hệ thống này sẽ kiểm soát tự động bất cứ điểm điều khiển xa nào để kịp thời ngăn chặn hậu quả của các hư hỏng khác nhau, bảo đảm ngắt hay chuyển mạch nguồn điện và khắc phục sự cố, kể cả tàu chìm hay hỏa hoạn.

Đặc biệt trên tàu còn được trang bị một trạm y tế dã chiến bố trí bên trong đảo chỉ huy. Trạm y tế này bao gồm 1 phòng mổ, 1 phòng khám nha khoa, 1 phòng chăm sóc đặc biệt (2 giường) và 6 giường bệnh, đây là trạm y tế dã chiến trên hạm hiện đại nhất của JMSDF vào thời điểm đó.[2]

  • Giường tầng của thủy thủ đoàn.
  • Bên trong khoang đổ bộ của tàu JS Kunisaki.
  • Cần cẩu lắp phía sau đảo chỉ huy của tàu JS Kunisaki
  • Máy bay MV-22B của Thủy quân lục chiến Mỹ hạ cánh xuống tàu JS Shimokita.
  • Cửa ngang trên thân tàu JS Osumi.
  • Cửa khoang đổ bộ ở đuôi tàu.
  • Tàu LCAC đang tiến vào bên trong tàu JS Osumi
  • Xe thiết giáp lội nước AAV-7 trên tàu JS Osumi.

Hệ thống động lực

Động cơ chính của tàu là 2 động cơ diesel 16 xi-lanh kiểu chữ V Mitsui 16V42M-A với thiết bị lái ở mũi, tương tự như hệ thống động lực của tàu tiếp liệu lớp Tawada. Hệ thống động lực này có tổng công suất 26.000 mã lực cho tốc độ tối đa 22 hải lý/h.

Hệ thống điện tử và vũ khí

Các bộ cảm biến của tàu bao gồm radar phát hiện mục tiêu trên không tầm xa OPS-14C, radar định vị theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-28D và radar định vị dẫn đường OPS-20. Ngoài ra, tàu còn được trang bị hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC. Cơ chế hoạt động của nó là phóng ra các rocket thả lá nhôm, tạo ra mục tiêu giả, gây nhầm lẫn cho đầu dò của tên lửa đang hướng đến.

Hỏa lực của tàu đổ bộ lớp Osumi khá hạn chế, tàu chỉ được trang bị 2 hệ thống pháo phòng không tầm gần Mk-15 Phalanx CIWS và 6 súng máy hạng nặng M2 Browning 12,7mm.

  • Radar phát hiện mục tiêu trên không tầm xa OPS-14C.
  • Radar định vị theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-28D.
  • Hệ thống pháo phòng không tầm gần Mk-15 Phalanx CIWS